Khoai sọ không chỉ là một nguyên liệu thông thường trong bữa ăn hàng ngày mà còn là vị thuốc quý trong y học cổ truyền. Theo các chuyên gia về đông y, khoai sọ chứa một hợp chất giúp phục hồi tế bào, tăng sự trao đổi chất, và có tác dụng chữa bệnh . Trong dân gian, người ta thường dùng cao khoai sọ để đắp vào vị trí bị u bướu, ung nhọt, và sau khoảng thời gian 10 ngày, khối u sẽ teo hết.
Theo nghiên cứu khoa học, khoai sọ có rất nhiều công dụng chữa bệnh. Tuy nhiên, do dùng dưới dạng thô chưa tinh chế, cần phải sử dụng lâu dài để thấy hiệu quả rõ rệt. Khoai sọ chứa một lượng kali khá lớn, giúp kiểm soát mức huyết áp và hạn chế nguy cơ bị cao huyết áp. Đồng thời, lượng chất xơ dồi dào trong khoai sọ giúp nhuận tràng và thải cặn bã ra khỏi cơ thể nhanh chóng.
Trong 100g khoai sọ có 1,5g chất xơ, đáp ứng được 27% lượng chất xơ cơ thể cần mỗi ngày. Chất xơ này giúp làm giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư ruột, đại tràng, thải độc và làm giảm lượng cholesterol xấu trong cơ thể. Hàm lượng vitamin C và B6 dồi dào trong khoai sọ giúp cơ thể tăng đề kháng và chống lão hóa. Khoai sọ còn chứa hơn 17 loại acid amin rất cần thiết cho cơ thể. Ngoài ra, khoai sọ còn chứa omega-3 và omega-6 rất tốt cho tim mạch, góp phần ngăn ngừa ung thư cũng như phòng tránh bệnh tật nói chung.
Theo y học cổ truyền, khoai sọ được coi là thực phẩm lành tính, bổ dưỡng, có tính bình. Khoai sọ có vị cay ngọt và vào 3 kinh tỳ (lá lách), vị (dạ dày) và đại tràng. Cả 3 kinh này đều đảm nhiệm chức năng tiêu hóa thức ăn. Do đó, khoai sọ có thể chữa được nhiều chứng bệnh về hệ tiêu hóa như đau dạ dày, chán ăn, tiêu hóa kém, đầy bụng, ợ hơi, đi ngoài phân lỏng, hay bị đau bụng.
Một số món ăn - bài thuốc chữa bệnh từ khoai sọ:
- Giúp nhuận tràng, chống táo bón: Khoai sọ có thể được dùng luộc ăn hoặc nấu canh. Nếu luộc, rửa sạch khoai và luộc cả vỏ rồi bóc ăn sẽ giảm ngứa và củ khoai được khô hơn.
- Chống suy nhược cơ thể: Gluxit, một chất có trong khoai sọ, có tác dụng cung cấp năng lượng, nuôi dưỡng tế bào thần kinh, và chống suy nhược cơ thể. Đối với người gầy, mới ốm dậy hoặc có dấu hiệu suy nhược cơ thể, dùng canh khoai sọ nấu móng giò hoặc dùng khoai sọ nấu thịt nạc sẽ giúp cơ thể mau phục hồi.
- Hỗ trợ trị viêm thận: Khoai sọ chứa nhiều chất xơ, vitamin và phốt pho, tạo điều kiện tốt để chữa những người bị viêm thận. Bạn có thể dùng khoai sọ trong thực đơn hàng ngày như nấu với rau muống, canh thịt, nhưng nêm gia vị nhạt hơn so với bình thường.
- Chữa kiết lỵ lâu ngày không khỏi: Dùng khoai sọ sắc nước uống mỗi ngày 2 lần. Nếu đi lỵ ra máu, khi uống hòa thêm đường đỏ; không ra máu, chỉ có nhầy thì pha với đường trắng. Hoặc dùng thân khoai sọ, củ cải, tỏi sắc nước uống thay trà trong ngày.
- Gân cốt đau nhức, sưng tấy: Dùng khoai sọ, gừng tươi, hai thứ liều lượng bằng nhau, đem rửa sạch, gọt bỏ vỏ, giã nát, đắp vào chỗ bị bệnh, mỗi ngày thay thuốc 2 lần. Dùng 3 - 5 ngày.
- Chữa chín mé: Dùng khoai sọ giã nát, trộn thêm chút muối, đắp vào chỗ sưng đau, lấy gạc băng lại, ngày thay thuốc 2 lần. Hoặc dùng thân khoai sọ giã nát đắp vào chỗ bị bệnh. Dùng củ khoai sọ trộn muối giã đắp lên những chỗ sưng đau trên cơ thể, đối với các loại đinh nhọt khác cũng có tác dụng tốt.
- Xương lợn hầm khoai sọ: Dùng khoai sọ, xương cẳng hoặc xương sống lợn nấu trong canh ăn.
- Cháo khoai sọ, củ mài: Dùng khoai sọ, sơn dược (củ mài), gạo tẻ nấu cháo ăn trong ngày. Thường xuyên ăn món cháo này có tác dụng ích khí, bổ tỳ vị, dùng chữa chứng đuối sức, mệt mỏi, kém ăn, miệng khát.
- Canh khoai sọ thịt lợn: Dùng khoai sọ, thịt lợn nạc nấu canh ăn trong các bữa cơm. Tác dụng bổ âm, chống khô khát, ích khí, nuôi dưỡng dạ dày, chống mệt mỏi.
- Chè khoai sọ táo tàu: Dùng khoai sọ (gọt vỏ thái thành miếng nhỏ), táo tàu, đường đỏ nấu thành món chè, chia 3 - 4 lần ăn trong ngày. Dùng để bồi dưỡng cho những trường hợp cơ thể suy nhược, phiền khát sau khi ốm dậy.
- Canh cua khoai sọ rau rút: Dùng cua đồng, khoai sọ, rau rút nấu canh. Món ăn này rất tốt cho người tâm trạng bồn chồn, kém ăn, ít ngủ.
Một công dụng rất đặc biệt của khoai sọ là khả năng tán khối kết, tiêu u, tiêu độc ở các khối u nhọt nói chung, thậm chí trong một số trường hợp có tác dụng đối với cả khối u ung thư.